Vì Sao Chúng Ta Phán Xét Lẫn Nhau?
Bài viết nằm trong chuỗi bài về các kỹ năng khai vấn mà bất kì ai cũng có thể áp dụng để có nhiều niềm vui và ít stress hơn trong công việc và cuộc sống.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phán xét nhiều hơn chúng ta nghĩ.
Chúng ta phán xét nhau trên mạng xã hội, trong gia đình, và ở cơ quan. Chúng ta phán xét những người nổi tiếng. Và chúng ta phán xét chính mình.
Tôi tin rằng mỗi người chúng ta đều cần học cách để giảm tính phán xét bởi vì phán xét là cách khiến con người rời xa khỏi sự thấu hiểu lẫn nhau. Thay vì đồng cảm và thấu hiểu, chúng ta rơi vào hiểu lầm, chỉ trích và đổ lỗi. Chúng ta không thể mở lòng vì sợ bị phán xét, bị đánh giá. Điều này làm giảm khả năng thay đổi của chúng ta.
Với những người làm nghề giúp đỡ người khác tạo ra thay đổi như bác sĩ, khai vấn (coach), giáo viên, nhà quản lý,... thì việc luyện tập khả năng sử dụng ngôn ngữ không phán xét lại càng quan trọng hơn.
Phán xét là gì?
Trước khi hiểu phán xét (being judgmental) là gì, ta cần phải hiểu thế nào là phán đoán thông thường (judgment).
Phán đoán diễn ra theo hai cơ chế: nhanh và chậm.
Cơ chế nhanh diễn ra tự động, tức thời, không cần nỗ lực. Cơ chế phán đoán bản năng này có ích cho chúng ta trong quá khứ. Trên đồng cỏ hoang vắng, chúng ta dựa vào tín hiệu môi trường như một luồng gió mạnh, tiếng động lạ trong bụi rậm để phán đoán tình hình và đưa ra phản ứng phù hợp - bỏ chạy, tấn công, hay đứng yên. Phán đoán trong tình huống sống còn như vậy cần phải nhanh. Trong xã hội hiện đại, phản ứng nhanh đó không còn phù hợp trong nhiều trường hợp. Nhưng chúng ta khó tránh được xu hướng tự nhiên này. Daniel Kahneman gọi đó là cách tư duy của hệ thống 1 (System 1 thinking). Cách tư duy này nhanh tức thời và xảy ra trong vô thức.
Trong khi đó, phán đoán chậm là cách tư duy hệ thống 2. Nó chậm rãi và có sự cân nhắc đầy đủ hơn. Phán đoán chậm không xảy ra tự động mà chỉ được kích hoạt khi bạn cần.
Một phán đoán tốt là khi chúng ta đưa ra một quyết định có suy nghĩ cẩn trọng với sự cân nhắc đối với các khía cạnh khác nhau của một hoàn cảnh hoặc những người có liên quan. Vì vậy, phán đoán tốt thường xảy ra theo cơ chế chậm. Nhưng điều ngược lại không hẳn đúng. Phán đoán xảy ra theo cơ chế chậm không phải lúc nào cũng là một phán đoán tốt. Trong khi đó, cơ chế phán đoán nhanh có tính bản năng. Tương tự, nhanh cũng không hẳn là xấu. Phán xét có thể diễn ra theo cả hai cơ chế nhanh và chậm kể trên. Chúng ta sẽ làm rõ nguyên nhân của phán xét ở phần dưới.
Vậy, phán xét là gì?
Là con người, chúng ta không thể tránh khỏi có những ý kiến, đánh giá, và thái độ về một sự việc nào đó, bất kể sự thật rằng chúng ta chưa có nhiều dữ kiện cũng như thời gian để xem xét toàn bộ sự việc ấy.
Phán xét xảy ra khi chúng ta đưa ra một nhận định mà không dựa trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng và nhận định đó thường có tính tiêu cực, mang tính dán nhãn, phân nhóm, kết luận vội vã, hoặc quơ đũa cả nắm.
Ví dụ ngôn ngữ có tính phán xét:
Anh ta ăn mặc đẹp, nên anh ta biết cách cư xử tốt với người khác.
Cô ấy là một phụ nữ rất hạnh phúc bởi vì cô ấy luôn cười.
Anh ấy nói chuyện rất mềm mỏng và hiền lành, nên anh ấy sẽ không bao giờ làm tổn thương cảm xúc của ai.
Cô ấy ghét tôi bởi vì cô ấy không bao giờ bắt chuyện với tôi.
Anh ta không bao giờ giữ lời hứa, vì vậy tôi sẽ không tin anh ta.
Ai thiếu hiểu biết mới coi đó là mê tín.
Chỉ những người bị bệnh tâm lý mới phải đi học thiền.
Chúng ta phán xét điều gì?
Bạn có đánh giá cảm xúc của mình là tốt hay xấu không?
Chúng ta được dạy quá nhiều ở trường về đậu rớt, tốt xấu, đúng sai đến nỗi chúng ta dùng các phạm trù nhị phân này để phán xét cảm xúc của chính mình. Sự đánh giá này dẫn tới hệ quả là chúng ta tìm cách đè nén hoặc xua đuổi các cảm xúc mà ta cho là kẻ gây rối. Ta không chỉ đối xử lạnh nhạt và thù địch với cảm xúc của chính mình mà còn áp đặt lối phán xét đó lên cảm xúc của những người xung quanh. Bạn đã từng nghe ai đó nói với bạn rằng "Trời ơi chuyện đó có gì đâu mà phải buồn!" Đây chính là một sự phán xét và phủ nhận cảm xúc của người khác.
Tương tự như với cảm xúc, chúng ta cũng đánh giá suy nghĩ, quan điểm, niềm tin, thái độ, hành động, hoặc lời nói của người khác và gán cho chúng những phán xét có tính tiêu cực nếu chúng khác biệt với chúng ta.
Tại sao chúng ta phán xét?
Có nhiều lý do vì sao chúng ta phán xét và có thể được chia ra làm 5 nhóm chính.
1. Ảnh hưởng của văn hoá, xã hội
Chúng ta phán xét lẫn nhau dựa trên những tiêu chuẩn của xã hội mà chúng ta đang sống.
Một lần, trong bữa cơm gia đình, nhân câu một chuyện có liên quan, người bà con của tôi đã chia sẻ với tôi rằng cô nhận thấy mình có định kiến với phụ nữ. Cụ thể là cô có thể bỏ qua khi một người đàn ông ngoại tình. Nhưng nếu một người phụ nữ mà ngoại tình thì đó là điều không thể chấp nhận. Điểm sáng mà tôi nhìn thấy là cô ấy đã nhận ra rằng mình có cách nghĩ phán xét này. Và điểm khó khăn là mặc dù rất muốn thay đổi cách nghĩ ấy nhưng cô không thể sai khiến tâm trí của mình làm theo được. Xã hội phong kiến đã đúc nên một cái khuôn vàng tiêu chuẩn cho phụ nữ qua hàng ngàn năm nay. Xã hội hiện đại khó mà thay đổi được những tư tưởng và nếp nghĩ xưa cũ chỉ trong một thế kỷ. Đàn ông không được khóc, phải làm trụ cột kinh tế cho gia đình, còn đàn bà phải biết nhường nhịn, không được tức giận và không được mắc sai lầm. Những quy chuẩn ngầm như thế vô hình chung làm cho con người chúng ta phán xét nhiều hơn và thấu cảm ít đi.
2. Ảnh hưởng của gia đình, môi trường sống
Nếp sống của gia đình ảnh hưởng lên cách mà chúng ta nhìn nhận con người và sự việc xung quanh.
Một người mà tôi quen biết từng thú nhận rằng vì anh là người con vượt khó học tốt của gia đình. Anh được cho là một người thành công khi tự mình học hành giỏi giang, đỗ đạt, và sinh sống ở nước ngoài bằng chính sức lực và tài tháo vát của mình từ hai bàn tay trắng. Anh nói rằng vì sự vươn lên này mà anh có một niềm tin rằng ai đó nếu họ nghèo khó, vất vả thì có nghĩa là họ đã có gì sai rồi. Mặc dù anh không hề tỏ vẻ coi thường bất kỳ ai, nhưng trong tâm tưởng, anh có một sự đánh giá đối với những người mà anh cho rằng yếu đuối và tụt lại phía sau.
Trong tác phẩm Những Kẻ Xuất Chúng nổi tiếng của mình, Malcolm Gladwell đã dùng ngòi bút điêu luyện của một nhà báo kì cựu để viết nên những câu chuyện tiêu biểu minh hoạ cho ý tưởng rằng sự cố gắng thôi là chưa đủ. Giả sử có hai người có cùng năng lực như nhau, sự thành bại của mỗi người phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác như môi trường sống, thời gian sống, và những sự kiện hoàn toàn ngẫu nhiên. Trong các nghiên cứu về trí thông minh, người ta cũng nhận thấy rằng tài năng bẩm sinh chỉ thực sự có thể phát huy hiệu quả ở một môi trường tương đối đủ đầy các điều kiện cơ bản cho phát triển. Như vậy, nếu bạn có một trí thông minh trung bình và mức độ hạnh phúc trung bình, và môi trường sống về cơ bản là tốt, thì bạn có thể cố gắng để có thành công ở mức trung bình khá hoặc hơn với nhiều nỗ lực hơn.
Bởi vì chúng ta không có cách gì biết đủ về toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh làm nên một con người, nên sự phán xét hay đánh giá một chiều nào về họ cũng là không thoả đáng.
3. Không có thói quen tự suy ngẫm
Cả hai ví dụ trên đều được chia sẻ từ câu chuyện mà tôi nghe được từ những người thân thiết trong gia đình. Họ đã có sự quan sát về cách nghĩ của bản thân. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thói quen tự suy ngẫm về mình. Khi một người phán xét mà không biết là họ đang phán xét, họ để cho mình bị chìm lấp hoàn toàn bởi ảnh hưởng từ xã hội và gia đình, hoặc từ trường lớp.
Giáo dục trường lớp có thể trở thành một nguồn ảnh hưởng lớn lao góp phần vào những tâm tưởng phán xét hẹp hòi trong mỗi chúng ta. Vì khi đi học, chúng ta phải chạy theo thời gian biểu của nhà trường. Chúng ta không có mấy thời gian để tự suy ngẫm bài vở và thực tế cuộc sống.
Nhiều người có học vị hoặc chức vị cao có thể rơi vào tình trạng phán xét vì họ không có thời gian suy ngẫm về những điều bên ngoài chuyên môn và công việc của họ. Nói cách khác, con người trong xã hội hiện đại có quá nhiều sự tiến bộ về tư duy, nhưng đồng thời chính những sự tiến bộ ấy lại vô tình đẩy chúng ta ra xa khỏi những điều kiện căn bản của tình người. Đó là thấu hiểu mà không phán xét.
Nếu bạn đi giữa thành phố Sài Gòn, Hà Nội, hoặc London, bạn sẽ thấy nhịp sống hối hả và ồn ào đến mức nào. Giữa sự tấp nập ấy, thì chúng ta không còn cách nào khác mà bị cuốn vào trong vòng xoáy của thời gian và nhịp độ phát triển của thời đại.
4. Không coi thái độ không phán xét là một điều cần luyện tập
Một trong những cách để thay đổi suy nghĩ là thay đổi cách mà bạn nói. Một cách khác là dùng cơ thể để cảm nhận thế giới thay vì dùng cái đầu của bạn mọi lúc mọi nơi.
Nhưng vấn đề là nhiều người trong chúng ta không nghĩ rằng việc phán xét sẽ cần phải luyện tập. Biết rằng mình không nên phán xét người khác là một chuyện, nhưng để trở nên không phán xét là một quá trình cả đời.
Trong bộ quy tắc đạo đức của Uỷ Ban Quốc Gia Về Khai Vấn Sức Khoẻ của Hoa Kì (National Board for Health and Wellness Coaching), các huấn luyện viên hoặc khai vấn viên (coach) được định nghĩa là người không có các lời nói và hành động mang tính phán xét với khách hàng. Điều này gây cảm tưởng rằng coach có thể tự nhiên mà trở nên không phán xét, giống như bật một cái công tắc vậy. Trên thực tế, có thể chia phán xét thành một số cấp độ khác nhau:
Phán xét vô thức
Phán xét có ý thức
Phán xét có tự suy ngẫm
Không phán xét có ý thức
Không phán xét vô thức
Hoàn toàn không phán xét
5. Không chấp nhận rằng phán xét là một phần của con người
Sự phán xét của chúng ta đến nhanh, tự động, và thường xuyên hơn chúng ta nghĩ.
Trong khoá thiền 10 ngày mà tôi đã tham gia hồi hè năm ngoái, tôi có nhiều dịp để chiêm nghiệm về những thói quen tư duy cố hữu của chính mình. Chẳng hạn, một sự việc thú vị xảy ra vào buổi tối thứ năm. Tôi đã chạm mặt một con dơi trong nhà vệ sinh khu nhà ở của thiền sinh nữ. Phản xạ đầu tiên của tôi là hét lên trước khi tôi kịp nhận ra sinh vật nhả hột nhãn trên đầu tôi là một nàng dơi hai mắt to tròn ngây thơ. Tôi nhận ra ngay nàng ấy chính là thủ phạm ăn và bỏ vỏ nhãn vương vãi trong nhà vệ sinh vào khuya hôm trước. Sau này vào ngày kết thúc khoá, khi mọi người được cho phép nói chuyện thì chúng tôi đều nhắc lại câu chuyện này. Tôi nhận thấy rõ cái gọi là phản ứng cực kỳ nhanh của tâm khi chúng ta nhận định một sự việc. Tâm nghi ngờ dấy lên ngay lập tức khi nhìn thấy vỏ nhãn trong nhà vệ sinh - "Ai lại thiếu ý thức như thế nhỉ?" Và chúng ta có xu hướng gán cái nghi ngờ ấy cho một người nào đó có vẻ khác biệt nhất với ta hay với tất cả mọi người còn lại. Trong phòng của tôi có một người như thế, nên có lẽ chị ấy cũng hứng chịu ít nhất là một vài suy nghĩ gán tội. Mặc dù về sau, hầu hết chúng tôi đều dễ dàng suy luận rằng đó hẳn phải là một con thú và việc có ai đó thức dậy để ... ăn nhãn trong phòng vệ sinh giữa đêm khuya thật là hết sức phi lí. Tuy nhiên, bạn có thể xem ví dụ này như một minh hoạ rõ ràng cho sự kỳ vọng và cái tâm phản ứng (mọi người phải giống tôi, nếu khác thì họ có vấn đề và dễ bị gán cho khi có những sự việc bất thường xảy ra). Tại sao chúng ta sẽ không chỉ quan sát rằng "À, xem kìa, có hạt nhãn trong nhà vệ sinh nữ!" mà bạn sẽ thêm vào vế sau "Có ai đó hẳn đã làm việc này. Ai thế nhỉ, hay là người kia, người đó trông có vẻ kì dị lắm!" Có lẽ bởi vì chúng ta đều là những con người bằng xương bằng thịt trước khi có thể là những sinh vật tinh tế và biết nghĩ cho người khác.
Nếu không có sự quan sát tĩnh lặng này, hẳn tôi có lẽ cũng cho rằng mình là người ít phán xét nhất trên đời. Tôi sẽ nghĩ rằng bởi vì mình luôn để ý tới sự phán xét, mình có thể cầm cương nó. Nhưng thực sự điều này không đúng. Muốn thay đổi, tôi phải chấp nhận rằng mình có một bản tính phán xét sâu sa mà mình không thể chối bỏ hoàn toàn.
Lời kết
Mặc dù ý thức về sự phán xét như một bản tính con người là chưa đủ để dẹp bỏ bản tính ấy. Nhưng việc hiểu và chấp nhận về sự tồn tại của một bản năng phán xét trong chính mình có một sức mạnh to lớn hơn chúng ta tưởng. Trong các bài sau, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về tác hại của phán xét, thế nào là không phán xét và làm sao để luyện tập thái độ không phán xét trong đời sống hằng ngày và trong công việc. Mời các bạn cùng đón đọc!