Mười Nguyên Tắc Lập Mục Tiêu
Là một người có thói quen viết nhật ký từ thời còn là học sinh, tôi cũng có một thói quen đi kèm đó là đặt mục tiêu cho bản thân. Nếu như nhật ký là chỗ tôi hồi tưởng lại những cảm nghĩ sau những công việc, dự án, hoặc một ngày bất kỳ, và rút kinh nghiệm bản thân, thì mục tiêu là nơi tôi soạn ra những gì tôi muốn đạt được trong tương lai. Nhật ký là quá khứ còn mục tiêu là tương lai và người viết là hiện tại. Như vậy, tôi di chuyển trong trục thời gian giữa quá khứ, hiện tại và tương lai thông qua việc viết xuống các mục tiêu của mình, thường là bắt nguồn từ việc nhìn lại quá khứ và hình dung những mong ước cho tương lai.
Tuy nhiên, tôi dần nhận ra rằng các mục tiêu này phần nhiều là tôi chưa thực hiện được tới nơi tới chốn hoặc là tôi phải mất nhiều thời gian hơn dự tính. Điều này làm tổn hại đến động lực và cảm xúc của tôi nhiều hơn tôi tưởng. Hoá ra, càng tìm hiểu thêm, tôi càng phát hiện một sự thật là việc đặt và theo đuổi mục tiêu không phải là vấn đề của riêng ai. Không chỉ cá nhân, mà các tập thể và tổ chức cũng gặp không ít bối rối. Chẳng hạn, một tác giả đã tổng hợp rằng có ít nhất 56 lý do khiến hầu hết các doanh nghiệp có khó khăn trong việc triển khai một ý tưởng mới thành hoạt động và kết quả thực tế.
Tại sao chúng ta cần một mục tiêu?
Chúng ta thường không hay nghĩ một cách chú tâm về thiết lập mục tiêu. Tại sao chúng ta cần một mục tiêu làm gì nếu đó là điều mà ta thực sự mong muốn? Chúng ta nghĩ, mình cứ việc đi mà làm điều đó thôi.
Bây giờ, hãy cho là chúng ta thực sự muốn điều gì đó và vẫn sẽ làm nó ngay cả khi ta không hiểu biết mấy về cách đặt mục tiêu. Tuy nhiên, nếu bất ngờ ta quyết định rằng mình không còn muốn điều gì đó nữa sau một thời gian. Điều này đã xảy ra với bạn bao giờ chưa? Đã bao nhiêu lần bạn bắt đầu một cách đầy nhiệt tâm và hăng hái, để rồi sau vài tuần hay vài tháng, bạn dần quên mất mục tiêu của mình vì cuộc sống vốn luôn quá bận rộn. Luôn có nhiều người và trăm công ngàn việc khác có vẻ quan trọng và cấp bách hơn đang cần bạn quan tâm.
Sau một thời gian, bạn có cảm tưởng rằng viết mục tiêu ra giấy hay đặt mục tiêu cá nhân là một việc hoàn toàn vô ích đối bởi vì bạn hiếm khi thành công trong việc theo đuổi mục tiêu đó. Càng viết mục tiêu và càng thất bại với nó, bạn lại càng cảm thấy xa cách và chán chường với chính cái hoạt động mà ban đầu bạn hào hứng. Bạn kết luận rằng có lẽ mình chẳng thích hoặc chẳng cần việc ấy đến mức đó và tự biện luận với bản thân: Mình không phải là tuýp người đam mê đọc sách; Mình không hợp với việc tập thể dục; Mình không thể làm công việc nào khác ngoài công việc này v.v…
Đó là trường hợp mục tiêu xuất phát từ bên trong bạn. Nhưng cũng có khi bạn muốn làm một điều gì đó bởi vì những tác động bên ngoài. Ví dụ, ai đó nói với bạn, bác sĩ, giáo viên, sếp của bạn, hay thậm chí là ‘cái tôi tương lai/ cái tôi cầu toàn/ mơ mộng của bạn’ bảo bạn như thế. Này, hãy uống thuốc đúng giờ nhé; Hãy đọc một chương sách mỗi ngày; Hãy nộp bài tập đúng hạn; Hãy hoàn tất dự án trong tuần này,… Nhiều trong số các đối tượng bên ngoài này sẽ nói với bạn những điều thực sự thấy mình nên làm. Và bạn muốn lập ra các mục tiêu để hoàn thành chúng.
Mọi việc trở nên phức tạp hơn khi bạn có vài mục tiêu và chúng đều quan trọng với bạn. Khi ấy, bạn sẽ cần phải quyết định thứ tự ưu tiên và dành thời gian và nguồn lực cho các mục tiêu đó. Một vấn đề xảy ra nữa là các mục tiêu đôi khi mâu thuẫn nhau, khiến cho bạn bối rối khi phải thực hiện chúng cùng lúc. Thời gian dành cho việc này sẽ lấn át thời gian dành cho việc kia. Hãy nghĩ tới công việc và sức khỏe, thời gian cho bản thân hay thời gian cho gia đình, v.v…
Tôi khuyến khích bạn hãy bắt đầu thực hành nghệ thuật và khoa học của việc đặt mục tiêu ngay từ bây giờ. Trong bài viết này, tôi sẽ chia sẻ với bạn một số nguyên tắc trong thiết lập mục tiêu mà tôi đã nghiên cứu và thực hành trong công việc và cuộc sống của chính mình.
“Mục tiêu tự nó thường không quan trọng; điều quan trọng là nó giúp chúng ta tập trung sự chú ý của mình và gom sự chú ý đó vào một hoạt động đầy hứng thú và nằm trong tầm tay của ta.” – Trích từ tác phẩm Flow của tác giả Mihaly Csikszentmihalyi.
Mười nguyên tắc lập mục tiêu
1. Mục tiêu gần
Mục tiêu gần nên được viết giống như một bản kế hoạch cụ thể, sao cho khi nhìn vào chúng ta biết mình phải làm gì tiếp theo một cách rành mạch. Nếu như bạn mới bắt đầu thực hành viết mục tiêu, thì mỗi lần chỉ nên lập một mục tiêu mà mình cho là cần thiết và quan trọng nhất với mình vào hiện tại. Tránh lập những mục tiêu ôm đồm hoặc mơ hồ. Chẳng hạn, một số học viên tôi từng huấn luyện là những người cần thay đổi lối sống để quản lý căn bệnh đái tháo đường tuýp 2. Khi được yêu cầu viết mục tiêu của mình trong chương trình, thì một số người viết rằng: “Mục tiêu của tôi là thay đổi lối sống thành công.” (mục tiêu ôm đồm) hoặc “Tôi muốn giảm đường huyết.” (mục tiêu mơ hồ).
2. Mục tiêu xa
Mục tiêu xa là mục tiêu trong dài hạn và cũng có vai trò riêng của nó. Mục tiêu xa giúp bạn có tầm nhìn rộng về con đường mà bạn muốn đi, cho bạn một hướng nhìn về tương lai và quan trọng nhất, nó cho bạn thêm động lực để vượt qua những rào cản, khó khăn trong suốt hành trình. Mục tiêu tầm xa nên có ý nghĩa với bản thân. Mục tiêu xa thường sẽ trừu tượng hơn mục tiêu gần. Bạn sẽ nhìn vào mục tiêu gần để biết phải làm gì mỗi ngày, mỗi tuần, hay mỗi tháng. Trong khi đó, bạn sẽ nhìn vào mục tiêu xa để thấy được ý nghĩa và lý do vì sao bạn đang làm tất cả những điều này. Nó cho bạn thêm nghị lực để vượt qua những đoạn đường gập ghềnh. Bạn nên viết xuống sổ ghi chép hoặc phần mềm ghi chép cá nhân những mục tiêu gần và xa của mình trong từng lĩnh vực quan trọng xoay quanh cuộc đời bạn như: Sức Khỏe, Công Việc, Tình Cảm, và Cá Nhân.
Nếu chỉ viết mục tiêu xa mà không có mục tiêu gần, thì bạn sẽ dễ rơi vào mơ tưởng viển vông và không đạt được kết quả cần thiết để đi đến đích. Hơn nữa, bạn sẽ có thể đối diện với thất vọng và chán nản khi mình dậm chân tại chỗ hoặc vì mục tiêu quá lớn khiến bạn cảm thấy không biết phải bắt đầu từ đâu.
Ngược lại, nếu chỉ viết mục tiêu gần mà thiếu mục tiêu xa, thì bạn có thể không có sự linh hoạt cần thiết cho việc điều chỉnh mục tiêu trong quá trình thực hiện. Bạn có thể quên mất ý nghĩa ban đầu của việc bạn đang làm. Khi khó khăn xảy đến, bạn có thể bỏ rơi mục tiêu của mình và đánh giá thấp những thứ bạn đang nỗ lực thực hiện. Bạn cũng có thể đi chệch khỏi điều bạn thực sự mong muốn.
3. Theo dõi tiến độ thực hiện định kỳ
Hãy theo dõi mục tiêu theo ngày, tuần, tháng hoặc năm, tuỳ theo mức độ cụ thể của mục tiêu. Các mục tiêu cụ thể, có thời hạn và có kế hoạch thực hiện thì cần theo dõi hàng tuần, mục tiêu vừa thì theo dõi hàng tháng, và mục tiêu dài hạn thì theo quý, theo năm. Mục tiêu thói quen ban đầu nên được theo dõi hằng ngày, nhưng khi đã thành nếp thì chỉ cần đánh giá lại khi cần. Việc theo dõi định kỳ này là cần thiết bởi vì nó sẽ giúp bạn luôn giữ động lực của mình tươi mới bằng cách nâng cấp bản thân qua việc đặt mục tiêu cao hơn một chút sau khi mục tiêu cũ đã hoàn thành. Con người chúng ta có một xu hướng tự nhiên đó là “ưa thích cái mới”, trong tiếng Anh gọi là ‘novelty bias‘, vì vậy, chúng ta cần chủ động tạo sự hấp dẫn cho mục tiêu của mình.
Một trong những yếu tố khác khiến chúng ta mất động lực, đó là ta không nhìn thấy sự tiến bộ – đôi khi là rất nhỏ – của bản thân. Nhưng nếu bạn áp dụng nguyên tắc số ba này một cách kiên trì, bạn sẽ nhận ra sự thay đổi. Bạn sẽ nhìn thấy những tiến bộ bình thường là quá nhỏ để được công nhận. Một dấu tick vào lịch bàn, một ngôi sao trong sổ tay, một lời đáp “Well-done you!” (Bạn làm tốt lắm!) từ em cú dễ thương trên ứng dụng học ngôn ngữ. Khi não bộ của bạn cảm nhận cảm giác thành tựu, nó cảm thấy dễ chịu, nó sẽ nhớ cảm giác này và nhắc bạn hãy tiếp tục lần sau. Ngược lại, nếu bạn không tạo điều kiện cho bộ não nhớ cảm giác tích cực này, nó sẽ chẳng buồn nhắc bạn làm gì. Thay vào đó, nó thúc giục bạn lướt facebook, chơi game hoặc những thói quen mà bạn biết là có hại hơn là có lợi, nhưng chẳng thể nào cưỡng lại sự cám dỗ quá mạnh. Não bộ là đồng minh nhưng cũng là kẻ thù, cũng là tùy vào năng lực lãnh đạo của ta với nó.
4. Cập nhật mục tiêu thường xuyên
Điều này có vẻ nói ra nghe rất hiển nhiên, nhưng sự thật là chúng ta dễ mắc phải cảm giác rằng mình phải theo đuổi mục tiên ban đầu và không được quyền thay đổi. Hoặc, ta cho rằng một khi mục tiêu mà thay đổi, thì không còn như trước nữa và đó là dấu hiệu của thất bại. Vậy làm sao để thay đổi mục tiêu mà không mang lại cảm giác mình đã ‘phản bội’ mục tiêu ban đầu? Trước hết, chúng cần hiểu về bản chất của mục tiêu và giá trị. Giá trị là những điều quan trọng với bạn mà bạn muốn vun đắp và giữ gìn trong cuộc đời hay trong công việc của bạn. Ví dụ, giá trị của tôi là học hỏi, gia đình, và chân thành. Từ các giá trị này, tôi đặt ra những mục tiêu có tính tầm nhìn dài hạn như chọn việc làm, chọn bạn đời, và chọn cách sống. Giả sử, tôi cho rằng để sống với giá trị học hỏi, tôi cần học tiến sĩ để được tiếp tục học tập trong môi trường nghiên cứu khoa học, được công nhận về bằng cấp và uy tín, từ đó tôi cống hiến, giúp đỡ người khác với năng lực và sự chân thành, và trở thành một thành viên có ích cho gia đình. Tuy nhiên, tôi nhận ra mình không nhất thiết phải có bằng tiến sĩ để làm được những điều trên và nhất là, để sống với các giá trị của tôi. Để nhận ra sự thật này, tôi vấp phải thất bại và nản lòng, thậm chí nghi ngờ bản thân trong một thời gian. Tôi tin rằng những điều này có thể khác đi với bạn, bạn không cần phải chịu đựng những cảm xúc tiêu cực từ việc thay đổi mục tiêu như ví dụ kể trên. Khi bạn đón nhận các dấu hiệu đầu tiên của việc mục tiêu có lẽ chưa phù hợp, bạn sẽ bình thản thay đổi mục tiêu cho thiết thực hơn mà không hề hy sinh những điều thực sự quan trọng hơn như giá trị và sứ mệnh cuộc đời bạn. Thay đổi mục tiêu không đồng nghĩa với từ bỏ hẳn, nó có thể là sự gia giảm các thông số nhất định: thay đổi thời hạn, thay đổi mức độ, thay đổi phạm vi, hoặc thay đổi cách thức thực hiện.
Càng tìm hiểu về các nghiên cứu về đặt mục tiêu, tôi càng nhận ra rằng nếu chúng ta sớm nhận ra bản chất của mục tiêu, chúng ta sẽ là những chiến binh dũng cảm và vui vẻ, luôn bước đi và nếu có ngã, cũng sẽ ngã về phía trước, với đầy những ‘vết xước’ – các vết xước của dấu ấn, của kinh nghiệm và của trưởng thành.
5. Kế hoạch thực hiện
Mục tiêu cần rõ ràng đến mức khi bạn nhìn vào, bạn biết ngay mình phải làm gì tiếp theo.
Nếu như mục tiêu cho ta hướng đi, thì động lực cho ta năng lượng để bước đi. Mục tiêu và kế hoạch là bản đồ, còn động cơ là nhiên liệu để chạy máy. Nếu không có động lực được giao tiếp và kết nối, ta sẽ không có sự thôi thúc từ bên trong khiến ta muốn nói chuyện với người khác. Mục tiêu của việc gặp gỡ giao tiếp với người khác là điều ta mong muốn có được sau đó: niềm vui, cảm giác gắn kết, chia sẻ cuộc sống.
Mục tiêu rõ giúp cho ta tăng động lực trong quá trình theo đuổi. Đặc biệt là những mục tiêu lớn (như là có hình thể đẹp) và cần nhiều bước theo trình tự (v.d. giảm 1cm vòng bụng/1 tháng trong 6 tháng tới). Với mốc thời gian và tiêu chí cụ thể, ta dễ dàng theo dõi sự thành công của mình. Sự thành công này chính là động lực cho ta tiếp tục với mục tiêu tiếp theo, thách thức hơn, hoặc đòi hỏi cam kết lâu dài hơn.
Bởi vì mục tiêu là hướng đi, nên mục tiêu sẽ có ích nhất khi chúng rõ ràng, cụ thể, dễ hình dung. Nếu không thì ta không biết mình đi đâu. Đường tráng nhựa, đổ bê tông, có tên đường, có Google Map sẽ dễ đi hơn rất nhiều so với đường chưa thành lối, nhiều đá sỏi và cây cỏ mọc um tùm. Ví dụ, mục tiêu của việc tập thể dục là có hình thể đẹp. Nhưng, thế nào là đẹp? Đẹp theo tiêu chí nào? Thật là mờ mịt. Như vậy mục tiêu này cần phải làm rõ hơn nữa. Ví dụ, có hình thể đẹp nghĩa là vòng bụng phải giảm xuống ít nhất là 1cm trong vòng 1 tháng tới. Đây là mục tiêu dễ bắn trúng đích hơn nhiều.
6. Bạn là vận động viên điền kinh hay người chạy nước rút?
Mỗi chúng ta đều là vận động viên đường dài hoặc người chạy nước rút vào những thời điểm khác nhau trong cuộc sống. Người chạy điền kinh cần sức bền, điều này giống với khi bạn lập các mục tiêu về thói quen hay nếp sống tốt, giúp bạn có được kiến thức, kỹ năng mới, hay sức khoẻ dẻo dai trong một thời gian dài. Vận động viên nước rút cần năng lượng và sự tập trung cao độ để về đích, điều này so sánh với các mục tiêu có thời hạn, có kế hoạch thực hiện, tiêu chí cụ thể và cần hoàn tất đúng thời điểm. Sự cân bằng giữa hai mục tiêu này là điều tối ưu. Nếu chỉ có mục tiêu dài hạn, bạn có thể không có cảm giác thành tựu mỹ mãn mà việc về đích mang lại. Ngược lại, hoàn thành các mục tiêu ngắn hạn tốn nhiều sức lực tinh thần và thể chất và có thể khiến bạn mất thăng bằng và đánh mất những giá trị quan trọng khác (mà bạn không nhận ra, vì bạn quá chú tâm vào cuộc chạy đua nước rút trước mặt).
Tuy nhiên, mỗi người có một xu hướng tự nhiên sẽ thiên về một trong hai kiểu trên: điền kinh hay chạy nước rút. Nếu bạn nhận ra xu hướng này của mình, bạn hãy nhìn xem mình có đang thiếu cân bằng quá không. Nếu có, bạn hãy điều chỉnh lại cho phù hợp và hiệu quả nhất với mình.
7. Gắn mục tiêu với ước muốn
Trong quá trình đào tạo về thay đổi hành vi cho các học viên lớn tuổi ở Việt Nam, tôi và các đồng nghiệp quan sát thấy rằng các cô chú có thể không quen với khái niệm ‘đặt mục tiêu’ – vốn sẽ dễ tiếp nhận bởi những học viên trẻ và làm việc ở các doanh nghiệp vì có khả năng là họ đã biết tới KPI, OKR hay các từ đao to búa lớn hơn như hoạch định chiến lược trong tổ chức. Vì vậy, tôi đã áp dụng khái niệm “Wish” từ mô hình của cô Gabriele Oettingen với tên gọi là WOOP Intervention để truyền tải thông điệp về mục tiêu đến các khách hàng lớn tuổi của mình một cách tự nhiên hơn. WOOP có bốn thành phần: W-Wish là điều bạn mong ước, là thứ quan trọng cốt lõi của mọi điều bạn làm, trả lời cho câu hỏi như: “Bạn thật sự muốn điều gì cho chính mình trong cuộc đời?” O-Outcome là kết quả mong đợi, O-Obstacle là trở ngại, và P-Plan là kế hoạch. Trong phần này tôi sẽ nói về Wish còn ba yếu tố sau sẽ được bàn trong mục tiếp theo.
Một số câu hỏi khởi động cho việc đặt mục tiêu dựa vào ước muốn:
Tôi của 10 năm nữa sẽ trông ra sao?
Tôi của tương lai sẽ muốn tôi của hiện tại làm điều gì nhất?
Nếu sống được tới 80 tuổi và nhìn lại đời mình…,
…tôi sẽ hối tiếc vì đã không làm điều gì? (Bật mí: Đây là câu hỏi mà Jeff Bezos của Amazon đã tự hỏi mình khi ông đứng trước quyết định có nên nghỉ việc và mở một công ty bán sách hay không. Bạn có đoán được câu trả lời của Jeff chứ?)
…tôi sẽ tự hào nhất về điều gì ở bản thân mình?
…mỗi ngày của tôi có ý nghĩa gì?
…tôi có dành đủ thời gian với những người mà tôi yêu quý không?
Wish giúp chúng ta kết nối được với những phần cảm xúc trong não bộ của mình, vốn có tiềm năng sáng tạo vô hạn, là nguồn gốc của những động lực lớn lao và mạnh mẽ nhất trong mỗi con người. Đối với nhiều người trong chúng ta, việc dung hòa giữa tiếng nói lý trí và tiếng nói cảm tính này là một điều không xảy ra một cách tự nhiên mà cần phải được rèn giũa. Các câu hỏi khởi động ở trên là một cách để bạn thực hành bước vào vùng cảm xúc của mình mỗi khi đặt mục tiêu. Khi bạn biết cách lắng nghe cảm xúc của mình chính là bạn đang nạp rất nhiều năng lượng cho con đường hướng tới mục tiêu gần nhất với trái tim của bạn (chứ không phải của ai khác, điều này rất quan trọng!).
8. Gắn mục tiêu với chướng ngại vật
Mục tiêu giúp ta nhìn về phía trước để biết mình cần đi đâu và kế hoạch giúp ta vượt qua từng chặng đường một. Một yếu tố quan trọng nữa đó là bạn phải có khả năng nhận ra các trở ngại và gắn các kế hoạch thực hiện với các trở ngại đó. Một kế hoạch hiệu quả khác với một kế hoạch thiếu hiệu quả ở chỗ nó luôn đặt hai yếu tố lên cùng một bàn cân, đó là tương lai tươi đẹp (outcome) và thực tế ‘phũ phàng’ trước mắt (obstacles) ngăn cản bạn đạt được điều đó. Đây gọi là “tư duy tương phản” (mental contrasting) được Gottingen coi là yếu tố cốt lõi của phương pháp đặt mục tiêu WOOP (tức Wish – Outcome – Obstacle – Plan).
Khi bạn hiểu những ước muốn của mình, bạn bắt đầu thiết kế ba phần còn lại của mục tiêu, đó là kết quả mong đợi, trở ngại và kế hoạch thực hiện tương ứng.
Ví dụ bảng kế hoạch thực hiện mục tiêu theo mô hình WOOP của Oettingen:
Ước muốn (Wish): “Tôi muốn đạt được Z” (leo lên đỉnh núi Fansipan)
Thành quả (Outcome): “Tôi sẽ cảm thấy S” (cảm thấy vượt qua chính mình)
Trở ngại (Obstacles): X, L,…
Kế hoạch A: “Nếu tình huống X (Obstacle) xảy ra, thì tôi sẽ làm Y” (v.d. Nếu tôi phải ở lại công ty trễ vào những ngày cuối tháng, thì tôi sẽ tập thể lực bù 1 tiếng vào cuối tuần đó.”)
Kế hoạch B: “Nếu tình huống L (Obstacle) xảy ra, thì tôi sẽ làm M” (v.d. Nếu tôi lo lắng, thì tôi sẽ gặp chuyên gia tâm lý để quản lý vấn đề lo âu của mình.”)
9. Chọn lựa và ưu tiên hay là thấu cảm với những nhu cầu của bạn
Một trong những nguyên do mục tiêu thường thất bại là hội chứng ôm đồm.
Khi viết mục tiêu, chúng ta cần cân nhắc đến nhu cầu của bản thân mình thay vì những mong muốn thường là luôn dễ trở nên quá nhiều. Mong muốn khiến chúng ta cảm thấy dường như mục tiêu nào cũng quan trọng như nhau, nhưng nhu cầu nhắc chúng ta về những điều thực sự quan trọng. Hãy nghĩ như một bông hoa đang ra nhuỵ. Bông hoa cần gì để trổ ra tuyệt đẹp và ngát hương? Nó cần không khí, nước, ánh sáng, và dưỡng chất từ đất. Tương tự như vậy, nhu cầu của con người chúng ta xoay quanh các điều kiện giúp chúng ta duy trì sự sống về mặt vật chất và tinh thần. Nhu cầu vật chất như ăn, uống, chỗ ở và nhu cầu tinh thần là cảm giác được kết nối, được thấu hiểu và được lắng nghe.
Hoặc bạn cũng hãy tưởng tượng mình là một đứa trẻ con. Một đứa trẻ sẽ cần gì thì đó cũng chính là những điều bạn cần. Chúng ta lớn lên và quên mất những điều mình thực sự cần thật ra vô cùng đơn giản. Đó là niềm vui, là thỏa mãn óc tò mò, là được khám phá, được cảm thấy mình có ích cho người khác, được yêu thương. Mục tiêu gì sẽ cho bạn những điều này?
Hiểu được mình cần gì đòi hỏi một chút sự luyện tập và chú tâm. Bạn tự hỏi mình, “Tôi thực sự cần gì khi đặt mục tiêu này?” câu hỏi đơn giản này giúp bạn quyết định tốt hơn, nhất là khi bạn có nhiều mục tiêu và cảm thấy quá tải. Hãy chọn mục tiêu dựa vào nhu cầu của chính bạn.
10. Mục tiêu thông minh
Nguyên tắc cuối cùng này thực chất là một hướng dẫn cách đặt mục tiêu mà bạn áp dụng được ngay vào bất kỳ điều gì bạn muốn làm, dựa vào chín nguyên tắc kể trên. Cấu trúc của bất kỳ mục tiêu nào cũng có thể được viết theo các tiêu chí SMART (THÔNG MINH). Trong đó:
S (specific) nghĩa là cụ thể, rõ ràng, chẳng hạn mục tiêu nên có yếu tố nơi chốn, con người, bối cảnh, thời điểm
M (measurable) nghĩa là đong đếm được
A (attainable) nghĩa là khả thi và vừa sức
R (relevant) là thực tế và có ý nghĩa với bản thân
T (time-bound) là có thời hạn rõ ràng. Điều này đặc biệt có ích trong việc giúp ta tránh để các công việc thường nhật và cấp thiết lấn át thời gian thực hiện các mục tiêu quan trọng, dài hạn, nhưng lại hiếm khi có thời hạn rõ ràng.
Dưới đây là một ví dụ cụ thể cho một mục tiêu mà tôi viết theo năm tiêu chí kể trên:
Lĩnh vực: Sức khỏe
Mục tiêu: Hình thành một thói quen hành thiền vững chắc hơn bằng cách thiền 10 phút mỗi sáng và tối trước khi đi ngủ, bắt đầu từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022. Để làm được vậy, tôi sẽ tạo một sổ ghi chép các suy ngẫm mà tôi quan sát được trong quá trình thực hành hằng ngày. Điều này quan trọng với tôi bởi vì tôi để ý thấy rằng việc thực hành thiền đều đặn trong gần 2 năm qua đã giúp tinh thần tôi khoẻ khoắn, an vui và bây giờ nếu tôi tập luyện chăm chỉ và chú tâm hơn nữa thì tôi có thể nâng cấp trình độ của mình thêm một bậc. Giờ thiền buổi tối còn có thể giúp tôi có thói quen ngủ tốt hơn.
Trên thực tế, mục tiêu này sau đó đã được điều chỉnh lại và tăng cấp độ thực hiện lên từ 10 phút thành 1 tiếng đồng hồ mỗi sáng và tối với thời hạn là 1 tháng. Sở dĩ có sự thay đổi này là bởi vì tôi quyết tâm thực hiện đúng theo hướng dẫn bài tập về nhà của thiền sư sau khi tham gia một khóa thiền 10 ngày. Đây là mức độ luyện tập tối thiểu mà thiền sư yêu cầu các thiền sinh thực hiện để đạt được sự tinh tấn. Vào cuối thời gian một tháng, tôi sẽ cập nhật mục tiêu lại dựa vào tình hình thực tế lúc đó (v.d. giả sử tôi có các mục tiêu khác cần ưu tiên hơn, tôi có thể cân nhắc giảm thời gian hành thiền xuống thành 30 phút/ lần).
Kết luận
Bạn thấy đó, mục tiêu có thể cùng lúc vừa rất rõ ràng, cụ thể, nhưng cũng vừa linh hoạt. Nó không hề ràng buộc chúng ta mà ngược lại, chúng giúp ta tự do. Khi bạn viết ra mục tiêu cũng có nghĩa là bạn giúp não bộ của mình thoải mái và hiệu năng. Một mặt, nó không cần cố nhớ là nó phải làm gì để đạt được mục tiêu. Đó là nhờ bạn đã có bản mục tiêu mà bạn luôn có thể xem lại bất kỳ lúc nào. Mặt khác, quá trình viết mục tiêu ra giấy khiến não bộ khắc cốt ghi tâm một cách tự nhiên và dễ dàng thực hiện và bạn hầu như ít khi cần phải xem lại mà vẫn nhớ như in mục tiêu của mình. Nếu bạn viết mục tiêu ra giấy, theo dõi chúng và thực hành việc đặt mục tiêu theo các nguyên tắc đã gợi ý trong bài này, bạn sẽ thấy rằng mình có khả năng chủ động tạo ra một cuộc sống mà mình mong ước. Đó là một cuộc sống hài hoà giữa điều bạn nghĩ, điều bạn muốn làm, và điều bạn thực sự làm.
Chúc bạn thành công!